bí mật đời tư
Tài liệu "Bí mật đời tư vấn đề lí luận và thực tiễn" có mã là 262000, file định dạng zip, có 17 trang, dung lượng file 24 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Kinh tế > Thuế. Tài liệu thuộc loại Đồng. Nội dung Bí mật đời tư vấn đề lí luận và thực tiễn
Sách nói | BÍ MẬT TƯ DUY TRIỆU PHÚ | Phần 2 / 11Phần 1: Kế hoạch tài chính trong tâm thức bạnKế hoạch Tài chính trong tâm thức bạn là gì và kế hoạch đó
Bí mật đời tư bị ảnh hưởng vì phiếu lý lịch tư pháp. Chưa hiểu quy định của Luật lý lịch tư pháp nên một số đại sứ quán, doanh nghiệp trong nước đã yêu cầu công dân bổ sung phiếu lý lịch tư pháp số 2 vào hồ sơ xuất cảnh hoặc định cư ở nước ngoài. “Bắt
Truyện Đời Thực Hấp Dẫn - Góc Khuất Bí Mật (Full) - Diễn Đọc MC Tâm An - Nghe Truyện Đêm:- Tâm An xin kính chào quý khán thính giả đã đến với kênh nghe
Có thể thấy rằng, bí mật đơi tư là một trong những quyền dân sự cơ bản của cá nhân được thế giới thừa nhận rộng rãi. Việc bảo vệ quyền bí mật đời tư còn đảm bảo cho việc thực hiện một số quyền khác của cá nhân (như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
modifikasi jupiter mx 135 warna biru hitam. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không những được ghi nhận trong các Công ước quốc tế về quyền con người, mà mỗi quốc gia thành viên đều phải tuân thủ thực hiện những nguyên tắc cơ bản trong việc bảo vệ quyền con người tại quốc gia thành viên. Vậy Hành vi xâm phạm bí mật đời tư cá nhân? Hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài viết dưới đây! Hành vi xâm phạm bí mật đời tư cá nhân – [Cập nhật 2023]1. Cơ sở pháp lý– Bộ luật dân sự năm 20152. Đời sống riêng tư là gì? Bí mật cá nhân, bí mật gia đình là gì?Đời sống riêng tư của cá nhân là tập hợp các yếu tố tạo thành nét riêng đặc thù, độc lập, không thể trộn lẫn và mang dấu ấn của riêng cá nhân, không thể trộn lẫn với người khác. Đời sống riêng tư của cá nhân có đặc điểm riêng biệt của cá nhân trong quá trình sống, thời gian sống, sự trải nghiệm trong các quan hệ xã hội mà hình thành và mang dấu ấn riêng của cá nhân. Đời sống riêng tư là một quan hệ phản ánh đời sống của một cá nhân có tính độc lập và với tư cách chủ thể trong các quan hệ xã hội ổn định hoặc không ổn định trong không gian và thời gian xác định mật cá nhân là tổng thể các quan hệ quá khứ, các thông tin liên quan đến cá nhân mang tính chất chi phối các quan hệ cụ thể của cá nhân mà bị bộc lộ sẽ gây cho cá nhân những bất lợi hoặc dễ gây ra sự hiểu lầm ở các chủ thể khác, mà bản chất của yếu tố bí mật cá nhân không gây ra bất kỳ một thiệt hại nào cho chủ thể sống riêng tư và bí mật cá nhân là hai thành tố hợp thành bí mật đời tư của cá nhân, là quyền nhân thân gắn với cá nhân được pháp luật bảo mật gia đình là những thông tin về vụ việc, tài liệu liên quan đến các quan hệ giữa các thành viên của gia đình với nhau có mối quan hệ hữu cơ đến truyền thống nhiều đời hay một đời về huyết thống, về bệnh lý, về năng lực trí tuệ của các thành viên có tính hệ thống, nếu bị bộc lộ sẽ gây ra sự bất lợi cho các thành viên gia đình trong các quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật khác thuộc nhiều lĩnh vực. Bí mật gia đình được giữ kín, nếu tất cả các thành viên trong gia đình có ý thức không muốn bộc lộ, thì không chủ thể nào có quyền xâm Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đìnhTại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ năm 1990 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc quy định “Không ai được phép can thiệp một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện vào cuộc sống gia đình, đời tư, nhà cửa, thư tín hoặc các phương thức giao tiếp khác”… Điều 44 Công ước này quy định “Thừa nhận gia đình là một tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội và có quyền được xã hội và nhà nước bảo vệ…”.BLDS năm 2015 quy định quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là một quy định cần thiết, quan trọng và là một điểm nhấn phản ánh quan điểm lập pháp và trình độ lập pháp ở Việt Nam hiện nay. Nhân tố con người được bảo đảm thực hiện có hiệu quả và thể hiện rõ nhất bản chất của nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Điều 12 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc quy định “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhânQuyền riêng tư được hiểu là không ai phải chịu can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá sự phát triển của mạng internet và những tiện ích của nó trong đời sống của cá nhân, cộng đồng, những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ đời tư, bảo vệ danh dự, uy tín của cá nhân đã ngày càng phát sinh những vấn đề phức tạp, bởi sức lan tỏa của những thông tin trên mạng internet. Những thông tin liên quan đến cá nhân, thông qua hệ thống mạng xã hội như Facebook về mặt tích cực mang lại những hiệu quả cao từ các thông tin cá nhân được bộc lộ về quan điểm sống, về tình yêu, việc làm, về những tấm gương điển hình, về văn hóa, vui chơi, giải trí. Nhưng không ít trường hợp, mạng xã hội bị lạm dụng để công khai nhiều thông tin, sự kiện liên quan đến cá nhân, tổ chức trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội gây ra những phản cảm cho người xem, người nghe khi sử dụng mạng xã hội… và thậm chí những người vi phạm pháp luật sử dụng mạng xã hội để kích động, để nói sai sự thật nhiều vấn đề nóng được nhiều người quan tâm và hệ quả của những thông tin này đã gây ra những biến đổi về nhận thức, đánh giá sai lệch một sự kiện hay một cá nhân, tổ chức cụ nhiên, để xác định được những cá nhân, tổ chức tung tin thất thiệt trên mạng xã hội làm lộ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác thật sự phức tạp, vì có những tên ảo, địa chỉ ảo. Việc xác định chủ thể trên mạng xã hội đã có hành vi trái pháp luật là xâm phạm đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác thật sự khó khăn, do vậy, không có căn cứ pháp lý để có thể quy trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân có hành vi trái pháp luật câu hỏi được đặt ra là trong những trường hợp cụ thể, Nhà nước có quyền can thiệp đến điện thoại, thư tín của cá nhân để nhằm chống khủng bố không? Về quyền riêng tư là một khái niệm khó xác khái niệm này được phân loại như một sự lựa chọn, một chức năng, một ước vọng, một quyền, một điều kiện hay một nhu cầu của cá nhân. Có cách hiểu quyền riêng tư là quyền được một mình, có cách hiểu quyền này theo nghĩa hẹp hơn là quyền kiểm soát các thông tin về bản thân. Một khái niệm dung hòa thì là sự tự do khỏi sự can thiệp không hợp lý và không mong muốn vào các hoạt động mà xã hội thừa nhận là thuộc về phạm vi tự chủ của cá nhân. Phạm vi tự chủ của cá nhân là những hành động không làm ảnh hưởng đến tự do của người khác, nơi một người cách ly với những người khác để tạo nên một cuộc đời mình như mong muốn và ước vọng của cá giữ kín nội dung thư tín, điện tín, điện thoại, tin nhắn… người thứ ba không thể biết, ngoài người gửi thư, điện tín, gọi điện thoại, nhắn tin… và người nhận những tin thông qua các hình thức này được thư tín, trách nhiệm giữ an toàn và bí mật thuộc về cơ quan bưu chính. Hiến pháp và các đạo luật khác ở Việt Nam có quy định về bí mật thư tín, điện tín, điện thoại, tin nhắn… của cá nhân được bảo đảm an toàn và đảm bảo tính bí mật về nội dung. Không cá nhân nào có quyền xâm phạm đến thư tín, điện tín, điện thoại, tin nhắn… của cá nhân khác nếu không được sự đồng ý của cá nhân gửi thư tín, điện tín, gọi điện thoại, gửi tin nhắn và bên nhận những thông tin đó. Hành vi xâm phạm bí mật thư tín, điện tín, nội dung đàm thoại, nội dung tin nhắn của cá nhân là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến quyền nhân thân của chủ thể, thì cá nhân, pháp nhân có hành vi xâm phạm các quyền nhân thân này có trách nhiệm dân sự là xin lỗi, bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần… Việc khám xét, bóc mở thư tín, điện tín, tin nhắn của cá nhân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Những hành vi nghe trộm nội dung điện thoại, bóc mở để đọc, sao chụp dưới mọi hình thức tin nhắn, điện tín, thư tín hay ghi âm nội dung đàm thoại của người khác là hành vi trái pháp luật và người thực hiện các hành vi trái pháp luật này phải bồi 38 BLDS năm 2015 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người gồm các quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là chuẩn mực pháp lý, là căn cứ viện dẫn để giải quyết các tranh chấp dân sự liên quan đến các hành vi trái pháp luật, hành vi cố ý xâm phạm đến quyền về đời sống riêng tư của cá nhân, bí mật cá nhân và bí mật gia Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đìnhCác quyền nhân thân về đời sống riêng tư của cá nhân, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là các quyền nhân thân bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo quy định tại khoản 2 Điều 38 BLDS năm 2015 thì việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng Quyền về đời sống riêng tưĐời sống riêng tư của cá nhân là những sự việc, quan hệ liên quan đến cá nhân, mà cá nhân giữ cho riêng mình, thể hiện sự chủ động, tự do và tự mình thực hiện các hành vi để phục vụ cho đời sống của riêng mình. Sự khép kín của đời sống riêng tư của cá nhân mà cá nhân không muốn chia sẻ, bộc lộ cho người khác biết và cá nhân xem như những lợi ích tinh thần của bản thân và tự mình, duy nhất mình có quyền thủ đắc và tự cân bằng cuộc sống trong mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… Các quan hệ xã hội khác mà cá nhân luôn luôn chủ động, tự chủ giữ gìn trong đời sống riêng tư về nơi ở, quan hệ liên quan đến cá nhân. Đời sống riêng tư của cá nhân là những lợi ích tinh thần của cá nhân có mối liên hệ với tài sản hoặc không có mối liên hệ với tài sản. Đời sống riêng tư của cá nhân là quyền nhân thân tuyệt đối của cá nhân. Đời sống riêng tư của cá nhân như một sự lựa chọn tự thân của cá nhân, tuy rằng các yếu tố khác trong quan hệ xã hội và trong bản thân của sự sống nhân loại luôn luôn có sự tác động trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống riêng tư của cá xét về mặt xã hội và tâm lý thì đời sống riêng tư của một cá nhân là sự lựa chọn, có thể có sai lầm và có thể phù hợp với thói quen, sự trải nghiệm, rèn luyện và nhận thức về cuộc sống hiện thực của cá nhân như một chức năng, như một ước vọng hay một nhu cầu đơn thuần về tinh thần của cá nhân. Sự tự mình, cho mình và chỉ riêng mình với mục đích và quan niệm sống của cá nhân tồn tại khách quan trong xã hội hiện đại và được tôn trọng, bảo vệ bằng pháp về mặt quan hệ pháp lý, quyền về đời sống riêng tư của cá nhân là quyền do luật định. Việc thực hiện quyền này và mức độ thực hiện đến đâu là do chính cá nhân định đoạt bằng hành vi của mình, vì mình, cho riêng mình và tự do hưởng dụng những lợi ích nào đó cho riêng mình, chỉ là của mình và không ai được xâm về đời sống riêng tư còn được xem như một điều kiện liên quan đến không gian và thời gian sống của cá nhân và là nhu cầu cần thiết nhằm phục vụ cho cuộc sống của cá nhân trong một hoặc nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội thông thường khác. Quyền về đời sống riêng tư còn là quyền tự chủ, độc lập, tự do, làm chủ hành vi của cá nhân trong quan hệ xã hội không làm ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác. Sự độc lập bản thân của cá nhân thực hiện một mong muốn, một ước vọng tự do nhằm tránh và cố tránh tối đa khỏi sự can thiệp của người khác một cách vô cớ, không hợp lý đối với thói quen của cá nhân. Vì vậy, quyền về đời sống riêng tư của cá nhân được hiểu là một phạm trù pháp lý nhằm đảm bảo cho cá nhân thực hiện được các lựa chọn cho một cách sống, thể hiện chức năng để đạt một ước vọng, một điều kiện sống nhằm thỏa mãn những nhu cầu sống, tư duy, hành động phù hợp với quy định của pháp luật về đời sống riêng tư của cá sống riêng tư của cá nhân được hiểu theo nghĩa hẹp Là quyền của cá nhân tự mình hành xử các hành vi nhằm đáp ứng trực tiếp nhu cầu sống độc lập theo cách lựa chọn của bản thân tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện đời sống riêng tư không làm phiền ai và không muốn ai làm phiền mình, đồng thời, cá nhân tự ngăn chặn các hành vi cản trở đến đời sống riêng tư của mình và có quyền khởi kiện dân sự khi đời sống riêng tư của mình bị người khác cản trở có tính thường xuyên, có hệ Quyền về bí mật cá nhânQuyền bí mật cá nhân là quyền dân sự, là quyền nhân thân gắn với cá nhân bất khả xâm phạm và bất khả chuyển giao. Những bí mật của cá nhân theo tính chất phụ thuộc mật độ và tính chất của các quan hệ xã hội khác. Bí mật cá nhân thuộc về bí mật đời tư là những thông tin, những quan hệ trong quá khứ và hiện tại của cá nhân và cá nhân không muốn bộc lộ công mật cá nhân liên quan đến nhiều yếu tố xã hội và pháp những quan hệ liên quan đến cá nhân và những thông tin về cá nhân phát sinh trong đời sống xã hội hay từ chính bản thân cá nhân mà cá nhân muốn giữ kín, không bộc lộ. Những hành vi thu thập, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật cá nhân phải được cá nhân đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn bí mật và bất khả xâm phạmTrong thời đại hiện nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ thông tin, nên cơ sở dữ liệu chứa đựng những thông tin rất quan trọng liên quan đến cá nhân dễ bị người khác quan tâm và muốn biết những nội dung cần thiết nhằm thực hiện một việc có lợi cho mình. Vì cơ sở dữ liệu là một tập hợp các bản ghi hoặc tệp có mối liên hệ lôgic với nhau và được lưu giữ trên máy tính và dễ bị lạm dụng. Vì vậy, cơ sở dữ liệu điện tử liên quan đến cá nhân được pháp luật bảo hộ. Chỉ trong những trường hợp luật định thì việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử của cá nhân mới được thực hiện phục vụ cho việc bảo đảm an ninh quốc gia về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, đối ngoại và quốc phòng, như theo dõi các đối tượng có âm mưu gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia, lợi ích của tổ chức và cá nhân hoặc theo dõi cá nhân có nguy cơ phạm tội hoặc nhằm chống khủng bên trong việc xác lập, thực hiện hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết đượcQuy định tại khoản 4 Điều 38 BLDS năm 2015 nhằm ngăn chặn các hành vi lạm dụng lòng tin của nhau trong quan hệ hợp đồng để nhằm mục đích trục lợi và ngăn chặn người thứ ba nếu biết được các thông tin liên quan đến cá nhân là chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng để thực hiện hành vi nhằm mục đích không trong sáng, gây thiệt hại về danh dự, uy tín của cá nhân là chủ thể xác lập, thực hiện hợp Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi xâm phạm quyền riêng tưThứ nhất, có hành vi trái pháp luậtCác quyền nhân thân về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là các quyền dân sự. Mọi cá nhân có năng lực pháp luật dân sự ngang nhau, do các quyền nhân thân này được pháp luật bảo vệ theo cơ chế pháp luật. Các quyền nhân thân về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình bất khả xâm phạm. Hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân này là hành vi trái pháp luật. Người có hành vi xâm phạm các quyền nhân thân của cá nhân trái pháp luật phải chịu trách nhiệm dân sự như xin lỗi, cải chính, bồi thường thiệt hại và căn cứ vào hành vi gây thiệt hại và nếu động cơ của chủ thể gây thiệt hại, mức độ thiệt hại là nghiêm trọng thì người gây thiệt hại có hành vi trái pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình hai, có thiệt hại về lợi ích tinh thầnNhững thiệt hại về quyền nhân thân do hành vi trái pháp luật gây ra được xác định là hành vi làm tổn thất về tinh thần cho cá nhân, gia đình công dân xác định được, người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người bị thiệt hại. Những khoản bồi thường thiệt hại do quyền nhân thân bị xâm phạm là bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định tại Điều 592 BLDS năm 2015.– Bồi thường thiệt hại về tài sản Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại khác do luật định.– Bồi thường tổn thất về tinh thần Người có hành vi trái pháp luật xâm phạm các quyền nhân thân về danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân ngoài khoản bồi thường thiệt hại về tài sản xác định được, còn có trách nhiệm bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người có quyền nhân thân bị xâm phạm gánh chịu. Mức bồi thường do tổn thất về tinh thần có thể do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì người bị tổn thất về tinh thần do các quyền nhân thân bị xâm phạm được bồi thường mức tối đa không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm bồi thường khoản 2 Điều 592 BLDS năm 2015.Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và thiệt hại về vật chất, về tinh thần cho người bị thiệt hạiQuan hệ này là mối quan hệ phổ biến, quan hệ biện chứng giữa hành vi gây thiệt hại xảy ra. Hành vi gây thiệt hại về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là nguyên nhân của thiệt hại về vật chất và những tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mối quan hệ nhân quả này cần phải xác định các yếu tố là quyền riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình như đã phân tích ở mục có hành vi xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của cá nhân là người có lỗiLỗi có thể là vô ý hoặc cố ý. Cho dù người xâm phạm đến các quyền nhân thân này có lỗi do vô ý hoặc cố ý đều có trách nhiệm bồi thường. Người xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình có lỗi cố ý và có tính hệ thống thường xuyên còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình định hành vi xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình thỏa mãn 04 điều kiện trên thì người có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại, tính chất của trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc ✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn ✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật ✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác ✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin
Quy định về quyền bí mật đời tư trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện quyền bí mật đời tư và bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Đây là quyền nhân thân gắn liền với mỗi công dân. Pháp luật có những quy định về quyền bí mật đời tư không chỉ trong Bộ luật dân sự mà còn đề cập trong một số văn bản pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Bộ luật Tố tụng Dân sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Quản lý Thuế…cao nhất là được ghi nhận trong Hiến Pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo quyền bí mật đời tư của cá nhân. Mục lục bài viết 1 1. Quy định về quyền bí mật đời tư trong một số văn bản luật quốc tế 2 2. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp 3 3. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật báo chí 4 4. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật giao dịch điện tử 5 5. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật công nghệ thông tin Trong các công ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia không quy định về quyền bí mật đời tư mà quy định về quyền riêng tư. Có thể hiểu một cách chung nhất, quyền riêng tư là quyền bảo vệ đời sống của cá nhân mà các cá nhân, tổ chức khác không được xâm nhập hay công bố thông tin. Nội dung cơ bản của quyền riêng tư gồm có sự riêng tư về thông tin cá nhân, cơ thể, thông tin liên lạc và nơi cư trú. Về bí mật đời tư, chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm về bí mật đời tư nhưng xét về từ ngữ ta thấy, nội dung của quyền riêng tư rộng hơn nội dung của quyền bí mật đời tư. Như vậy, chúng ta có thể khai thác những quy định về bí mật đời tư trong quyền riêng tư ở một số công ước quốc tế. Trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 UDHR, Điều 12 ghi nhận “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân; mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.” Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ICCPR, Điều 17 nêu rằng “Không ai bị can thiệp một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.” Về cơ bản, cả Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đều ghi nhận giống nhau mỗi người đều được bảo vệ về những điều riêng tư trong đời sống cá nhân, gia đình, nơi ở và thư tín. Cả hai văn bản này đều có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam, mỗi cá nhân đều được Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền riêng tư này. 2. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp Điều 21 Hiến pháp năm 2013 đã có quy định như sau “- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. “- Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác”. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người chưa có văn bản hướng dẫn và nếu xảy ra vi phạm sẽ rất khó xác định thế nào là đời sống riêng tư nhưng quy định này đã mở rộng phạm vi hơn nhiều so với quyền bí mật đời tư. Ngoài ra, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thông tin bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn và khẳng định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về bí mật gia đình. 3. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật báo chí Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, báo chí là lĩnh vực có liên quan nhiều nhất đến bí mật đời tư cá nhân, đồng thời cũng là lĩnh vực mà việc xâm phạm bí mật đời tư cá nhân xảy ra mọt cách thường xuyên, như một sự việc hiển nhiên của ngành, thậm chí việc xâm phạm bí mật đời tư là một việc không thể thiếu nếu muốn có một bài báo “giật gân”, “nổi”, thu hút dư luận chú ý. Và những người bị báo chí xâm phạm bí mật đời tư phần lớn là những người nổi tiếng, bên cạnh đó thì mỗi cá nhân đều dễ dàng trở thành đối tượng bị xâm phạm bí mật đời tư trong giới báo chí. Khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Nghị định 51/2002/NĐ-CP hướng dẫn Luật Báo chí quy định “Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Khi báo chí công khai những hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư, có nhiều phản ứng trái chiều. Nhưng hầu như không ai đồng tình với việc thông tin cá nhân, bí mật của mình được đăng tải trên báo chỉ, được nhiều người biết đến, dù là tốt đẹp nhưng đó là những điều không mong muốn công khai. Luật chỉ quy định “không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó” mà không quy định về việc xin sự cho phép việc đăng ảnh. Thậm chí, cũng chỉ có quy định cụ thể về hình ảnh chứ chưa có quy định cụ thể về bí mật đời tư. Chính vì vậy mà hiện nay việc báo chí khai thách một cách công khai, tràn lan bí mật đời tư, đặc biệt là của người nổi tiếng là một việc phổ biến, thậm chí đã trở thành chuyện bình thường trên mặt báo. Quy định báo chí được quyền đăng thông tin, hình ảnh của cá nhân trong trường hợp” “Người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Bên cạnh đó, cũng không quy định khoảng thời gian được phép đăng tải những thông tin, hình ảnh của những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án. Có những trường hợp báo chí đăng tải lại thông tin của những vụ án đã xảy ra rất lâu, hay đăng tải thông tin theo kiểu “người một thời” trong khi những sự việc này đã là sự việc của quá khứ, những con người đó có thể đã trở về với cuộc sống của một người bình thường. Dù việc đăng tải lại những thông tin này với mục đích nào, việc đào bới lại quá khứ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của cá nhân người đó và những người thân xung quanh. 4. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật giao dịch điện tử Điều 46 Luật giao dịch điện tử 2005 quy định về Bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử “- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử. – Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài Giao dịch điện tử cũng là một lĩnh vực liên quan nhiều đến môi trường mạng, và việc xử lí thông tin trong giao dịch điện tử là việc mà không phải ai cũng biết, đòi hỏi có một trình độ chuyên sâu nhất định. Chính vì vậy việc rò gỉ thông tin khi giao dịch điện tử rất dễ xảy ra, khó kiểm soát, và đôi khi chính bản thân người bị xâm phạm cũng không biết. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử đã quy định về bảo mật thông tin tuy nhiên quy định này còn khá chung chung, cần làm rõ hơn, đặc biệt những trường hợp pháp luật có quy định khác cần quy định rõ ràng. 5. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật công nghệ thông tin Điều 21 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quy định thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân trên môi trường mạng như sau “- Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. – Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác có trách nhiệm sau đây +Thông báo cho người đó biết về hình thức, phạm vi, địa điểm và mục đích của việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người đó; + Sử dụng đúng mục đích thông tin cá nhân thu thập được và chỉ lưu trữ những thông tin đó trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận giữa hai bên; + Tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá huỷ; + Tiến hành ngay các biện pháp cần thiết khi nhận được yêu cầu kiểm tra lại, đính chính hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này; không được cung cấp hoặc sử dụng thông tin cá nhân liên quan cho đến khi thông tin đó được đính chính lại. – Tổ chức, cá nhân có quyền thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác mà không cần sự đồng ý của người đó trong trường hợp thông tin cá nhân đó được sử dụng cho mục đích sau đây + Ký kết, sửa đổi hoặc thực hiện hợp đồng sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; + Tính giá, cước sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; + Thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Điều 22 Luật Công nghệ thông tin quy định lưu trữ, cung cấp thông tin cá nhân trên môi trường mạng “- Cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ thông tin cá nhân của mình trên môi trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ thông tin đó. – Tổ chức, cá nhân không được cung cấp thông tin cá nhân của người khác cho bên thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự đồng ý của người đó. – Cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin cá nhân”. Luật quy định khá chi tiết để đảm bảo quyền của mỗi người đối với thông tin cá nhân, đời tư trong môi trường mạng tuy nhiên việc thực hiện lại không hề dễ. Việc cá nhân bị xâm phạm đời tư hay thường gặp nhất là vi phạm hình ảnh đã xảy ra không kiểm soát nổi trên môi trường mạng hiện nay. Cũng có những trang mạng có chính sách bảo vệ người dũng tuy nhiên những chính sách này thiên về bảo vệ quyền tác giả nhiều hơn ví dụ như Youtube, còn các thông tin, hình ảnh cá nhân.. hiện nay chúng ta vẫn chưa kiểm soát được. – Quy định về quyền bí mât đời tư trong Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và Hiến, lấy xác năm 2006. Căn cứ Điều 11 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và Hiến, lấy xác quy định nghiêm cấm hành vi “Tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật.”. – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân. Căn cứ Điều 25 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân “Thầy thuốc có nghĩa vụ khám bệnh, chữa bệnh, kê đơn và hướng dẫn cách phòng bệnh, tự chữa bệnh cho người bệnh; phải giữ bí mật về nhưng điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời tư mà mình được biết về người bệnh…” Các quy định buộc bác sĩ, những người làm công việc chữa bệnh khác phải tôn trọng bí mật đời tư của người bệnh. – Quy định về quyền bí mật đời tư Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS Căn cứ Điều 8 Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS nghiêm cấm “Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người đó.” – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật Quản lý thuế 2006 Điều 6 Luật Quản lý thuế 2006 ghi nhận cho người nộp thuế có quyền “…3. Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật.” Và đây cũng được xác định là trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế. Do trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức, cá nhân phải nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ nộp thuế là bắt buộc, bất cứ chủ thể nào vi phạm nghĩa vụ này có thể phải chịu những chế tài nhất định. Tuy nhiên, những thông tin về người nộp thuế cũng được coi là bí mật đời tư và được bảo mật. – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật Phòng, chống tham nhũng Căn cứ Điều 7 Luật phòng chống tham nhũng 2005 quy định người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có quyền được bảo đảm bí mật nội dung của bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật…”.
======= Nếu bạn muốn tiếp tục truy cập nội dung truyện, mời CLICK ĐỌC tại ========Số chương 11 chương + 1 vĩ thanh + 1 phiên ngoại. Thể loại trọng sinh, 1x1, anh em nuôi, ngược nữ sau ngược nam, H18+, HE vĩ trước tới nay trong suy nghĩ An Bối Nhã không bao ngờ nghĩ rằng sẽ có ngày mình kết thúc cuộc sống thê thảm như vậy Cô từng nghĩ bản thân có thể sẽ chết già, chết vì bậnh tật, chết vì cô đơn, cười thong dong chờ chết, nhưng chưa hề nghĩ tới sẽ chết ở độ cao ba mươi nghìn feet. Cô không cho là mình lần này có khả năng sống sót, dù sao cánh máy bay đã nổ tung, hơn nữa thân máy bay cũng đang rung lắc dữ dội mà lao xuống dưới, không bất ngờ là, cô sẽ bị nổ tung thành từng mảnh nhỏ, sau đó xương cốt không còn!An Bối Nhã nhắm mắt mỉm cười, đối lập với những tiếng thét kinh hoảng, tiếng gào khóc giãy giụa, cô vô cùng bình tĩnh, đôi tay đặt vào hai bên vịn ghế,thân mình an ổn dựa vào chiếc ghế da êm ái của khoang hạng nhất. Thật ra cô vốn không muốn đi chuyến bay này, nói đúng hơn là dựa theo lộ trình, cô lúc này phải hướng Paris, một lòng hướng tới những chuyện lãng mạn. Chỉ là hiện tại xem ra cô không có duyên với lãng mạn rồi. Khóe miệng mỉm cười mang theo nét tự giễu, thân máy bay lao nhanh xuống, áp suất không khí bắt đầu làm cho dạ dày cô quặn thắt khó chịu, màng tai cũng bắt đầu đau giây phút cuối cùng trước khi mất đi ý thức, cô nghĩ đến người kia... Liệu anh có cảm thấy khổ sở trước cái chết của cô không? Không, hẳn là không đâu, anh sẽ âu yếm ôm mĩ nhân của mình, đeo nhẫn cưới cho cô ấy, sau đó cùng nhau nâng chén chúc mừng, người anh ghét rốt cục đã biến mất An Bối Nhã, tôi hận vì sao cô không thể vĩnh viễn biến mất trước mặt kia, từng cao ngạo, dùng cái miệng bễ nghễ mà khinh thị đó, nói với cô. Xem ra thật hợp với nguyện vọng của anh chất lỏng ấm áp từ khuôn mặt chảy xuống, tràn qua cánh môi. Cho dù thái độ thanh thản, nhưng trong lòng cô là tiếc nuối, là mất mát, là bi thương. Cuối cùng... cô vẫn không kịp, không kịp nói với anh rằng...
Luật Hòa Bình có bài viết chia sẻ về "Quyền bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật đời tư" . Rất mong được sự góp ý. Xin cảm ơn. - “bí mật đời tư” là một cụm từ Hán - Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không muốn ai biết. “Tư” ở đây có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Điều 34 Bộ Luật Dân Sự BLDS 1995 chỉ ghi nhận ngắn gọn 1. Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu huỷ thư tín, điện tín, nghe trộm điện thoại hoặc có hành vi khác nhằm ngăn chặn, cản trở đường liên lạc của người khác. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật quy định và phải có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân. Như vậy, theo Điều luật này, “bí mật đời tư” được giới hạn trong phạm vi “thư tín, điện tín, điện thoại”, “đường liên lạc”. Điều 38 BLDS 2005 quy định quyền bí mật đời tư trong phạm vi rộng hơn, tức bổ sung thêm “các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân”, còn nội dung khác vẫn giữ nguyên theo tinh thần BLDS 1995. Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín… Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền bí mật đời tư như sau "1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền". Mặc dù Điều 38 BLDS không đưa ra khái niệm bí mật đời tư, nhưng theo lẽ thông thường có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân mà cá nhân đó không muốn cho người khác biết. Báo chí có quyền đưa tin, nhưng với những thông tin về bí mật đời tư của cá nhân thì việc đưa tin phải được sự đồng ý của cá nhân đó. Ở đây cần phân biệt sự công khai thông tin tại Toà án giữa một vụ án dân sự, hôn nhân gia đình với một vụ án hình sự. Trong vụ án hình sự, những thông tin đó liên quan đến người phạm tội, họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu hình phạt do Nhà nước qui định nên những thông tin này có thể được công khai để nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Đối với những thông tin trong vụ án ly hôn, đó là thông tin liên quan đến bản thân đương sự, không ảnh hưởng gì đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hay lợi ích của người khác nên các đương sự có quyền không công khai những thông tin này. Trường hợp này cần phải hiểu là công khai thông tin tại Toà án không đồng nghĩa với việc mất tính bảo mật của thông tin đó. Việc công khai thông tin tại Toà án khi các đương sự ly hôn là căn cứ để Toà án xem xét, quyết định cho ly hôn, cấp dưỡng, nuôi con, nhưng thông tin đó nếu được công khai ra dư luận có thể sẽ tạo sự bất lợi trong cuộc sống, sinh hoạt của người trong cuộc. Ví dụ anh A xin ly hôn với vợ là chị B, tại phiên toà, anh thừa nhận rằng quan hệ sinh lý giữa hai vợ chồng không hoà hợp anh bị mắc bệnh… nên Toà án đã đồng ý cho ly hôn. Sau đó, những lời trình bày của anh A tại phiên toà được công khai, dư luận đàm tiếu…- trường hợp này cũng cần xác định rằng mặc dù thông tin đó được công khai tại phiên toà nhưng vẫn được coi là bí mật đời tư. Về nguyên tắc luật, “Quyền bí mật đời tư” là không đồng nhất với khái niệm “Quyền riêng tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì phức tạp, bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen… Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…. Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái niệm “bí mật đời tư”. Và việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái niệm “đời tư”.
Các đại biểu Quốc hội Đoàn thành phố Hà Nội thảo luận ở tổ sáng bước đột phá về chuyển đổiCác đại biểu cơ bản đồng ý với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh về sự cần thiết ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực,,,Đại biểu Nguyễn Tuấn Thịnh Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng nhiên, các đại biểu cũng cho rằng để việc xây dựng, ban hành Luật Căn cước được chặt chẽ, phát huy hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ, sớm hoàn thiện ứng dụng tài khoản định danh điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy tối đa hiệu quả của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn biểu Lê Nhật Thành Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng Trung tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, các nội dung trong dự án Luật Căn cước công dân sửa đổi góp phần quan trọng vào “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ. Để thực hiện thành công Chương trình này, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước có ý nghĩa rất quan trọng, cùng với các cơ sở dữ liệu chuyên giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam Điều 7, đại biểu nhất trí việc bổ sung đối tượng áp dụng là người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch. Dẫn chứng thực tế nhiều người dân vùng đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống tại đây lâu nhưng chưa có giấy tờ hợp lệ, việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam sẽ mở ra hướng giải quyết đối với một bộ phận người gốc Việt Nam có nguyện vọng cần có một loại giấy tờ tùy thân, giúp họ ổn định cuộc sống, có việc làm, con em được đến trường, bảo đảm quyền lợi trong giao dịch dân sự, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội Đoàn Hà Nội thảo luận tại người được cấp thẻ căn cước Điều 20, đại biểu Nguyễn Hải Trung đồng ý với phương án cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi nhằm tạo thuận lợi trong việc khám, chữa bệnh, sử dụng phương tiện công cộng, đi học, thay vì phải dùng giấy khai sinh bản giấy nhiều bất tiện, không có đủ thông tin sinh đổi thêm thông tin về việc tích hợp các cơ sở dữ liệu chuyên ngành gắn với căn cước công dân, đại biểu nhấn mạnh dự thảo Luật không chỉ phục vụ hoạt động của ngành Công an, mà còn nhiều ngành trọng bảo vệ thông tin cá nhânĐại biểu Nguyễn Thị Lan cho biết, hiện nay, chúng ta đang triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Vì thế, việc ban hành dự án Luật này giúp người dân giảm thiểu giấy tờ, thủ tục hành chính khi giải quyết trên môi trường mạng, tăng cường công khai, minh biểu Nguyễn Thị Lan Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10, đại biểu cho rằng, việc mở rộng, bổ sung thông tin lưu trữ là cần thiết, đồng thời việc tăng cường chia sẻ, kết nối giữa các cơ sở dữ liệu sẽ phát huy tối đa hiệu quả sử dụng dữ liệu, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và tiệm cận với xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu kỹ từng loại thông tin quy định tại các điều này để bảo đảm hiệu quả, có tính khả tích hợp thông tin vào thẻ căn cước Điều 23, đại biểu nhất trí việc tích hợp một số thông tin về công dân vào thẻ căn cước nhằm góp phần giảm giấy tờ cho công dân, tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức và công dân trong các giao dịch hành chính, dân sự, đi lại, cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc tích hợp thông tin phải đi đôi với việc bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và quản lý, sử dụng thông tin để bảo vệ quyền công dân, bí mật đời tư của công bản nhất trí với các nội dung dự thảo Luật, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm kiến nghị cơ quan soạn thảo bổ sung mục “tên thường dùng” trong thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10. Đại biểu dẫn chứng trường hợp của cá nhân đại biểu, có tên khai sinh là Đặng Minh Châu nhưng tên thường dùng là Thích Bảo Nghiêm. Đại biểu cũng nhất trí cao với mục “Nhóm máu” trong Điều 10, bởi khi người dân đi cấp cứu, khám, chữa bệnh thì thông tin này rất cần và không phải xét nghiệm biểu Nguyễn Anh Trí Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng, quan đến thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10, đại biểu Nguyễn Anh Trí góp ý vào việc ghi “Quê quán”. Đại biểu dẫn chứng việc bản thân sinh sống và làm việc hơn 50 năm tại Hà Nội, nhưng mỗi khi cần phải xác minh thủ tục giấy tờ, phải về Quảng Bình.“Bản thân tôi, có thể xác minh được vì còn nhiều người ở địa phương biết. Nhưng các con, cháu tôi sau này mà về Quảng Bình để xác minh lý lịch thì sẽ không ai biết vì chúng không sinh ra và lớn lên ở đó. Vì thế, cơ quan soạn thảo cần tính đến phương án này để giảm phiền hà về thủ tục cho công dân”, đại biểu kiến Hiệp
bí mật đời tư